Bên cạnh những bài social, mình cũng có kinh nghiệm viết review sách, viết bài SEO cho ngành hàng mỹ phẩm, mẹ và bé (Avakids);...
SỰ KHÁC BIỆT CỦA CÁC LOẠI AHAs LÀ GÌ? LOẠI NÀO DÀNH CHO BẠN?
AHAs là nhóm acid được Dermarium thường xuyên khuyến khích sử dụng. Bởi so sánh với những nhóm acid thường được sử dụng trong mỹ phẩm khác như Salicylic Acid hay PHAs thì AHAs ngoài khả năng tẩy da chết ưu Việt còn có số lượng lớn các nghiên cứu đáng tin cậy chứng minh khả năng làm sáng, chống lão hóa, giữ ẩm,… Cũng nhờ tính đa nhiệm và hồ sơ an toàn cao mà AHAs thường là nhóm acid phục vụ nhu cầu của phần lớn các loại da, các tình trạng, các vấn đề da thường gặp hiện nay, từ da khô đến nhờn, từ da thâm đến mụn, từ da khỏe đến nhạy cảm đều có thể tìm được sản phẩm/ loại AHA(s) phù hợp.
Các tiểu tinh tú trong vũ trụ AHAs?
Trong các sản phẩm chăm sóc da phổ biến hiện nay, có 3 hoạt chất AHAs phổ biến nhất: Glycolic acid, Lactic acid và Mandelic acid. Mặc dù đều có khả năng hoạt động như thành phần tẩy da chết nhưng mỗi loại lại có sự chênh lệch về kích thước phân tử, dẫn đến khả năng thẩm thấu và hiệu lực tác dụng cũng khác nhau:
-
Glycolic acid: Sở hữu kích cỡ phân tử nhỏ nhất, Glycolic có khả năng thâm nhập sâu và nhanh tới các lớp tế bào. Do đó, Glycolic Acid thường đem lại hiệu quả nhanh, khả năng làm sáng tốt nhưng lại có tỉ lệ kích ứng cao.
-
Lactic acid: Sở hữu kích thước phân tử trung bình trong 3 loại, Lactic thẩm thấu chậm, khả năng hút nước, giữ ẩm và phục hồi màng da tốt – do vậy, Lactic Acid thường được ưa chuộng ở làn da khô, nhạy cảm. Điểm yếu của loại acid này là khả năng làm sáng da không cao khi so sánh với Glycolic hoặc Mandelic.
-
Mandelic acid: Nhờ có kích thước phân tử lớn nhưng lại có vòng benzen ở cấu trúc, Mandelic Acid thấm chậm nhưng sâu và đều. Thêm vào đó, vòng benzen giúp Mandelic Acid có ái lực tốt hơn với chất béo nên Mandelic Acid là loại AHA duy nhất thể hiện khả năng tẩy da chết thành lỗ chân lông. Theo những báo cáo tổng hợp thì Mandelic Acid còn giúp ức chế hiệu quả quá trình tạo hắc sắc tố và có khả năng làm sáng da ổn nhất trong 3 loại AHAs.
Vì sao nên dùng AHAs?
Một làn da khỏe thường có tốc độ thay da biểu bì ổn định ở khoảng 28 ngày, và cùng với quá trình thay da này là quá trình sản xuất và duy trì lớp màng bảo vệ tự thân giàu ceramides và các hoạt chất dưỡng ẩm tự nhiên. Lớp màng này chính là tấm khiên bảo vệ da trước những xâm hại từ môi trường bên ngoài. Trong quá trình lớn lên và già đi của cơ thể, da sẽ xuất hiện những bất thường trong quá trình thay da biểu bì, ví dụ như tốc độ thay da bị chậm, tế bào mới không được sản sinh kịp thời, lớp da chết bề mặt không rụng được, tạo một lớp dầy cui, thô xỉn trên bề mặt da đi cùng với bít tắc lỗ chân lông gây mụn. Khi tiến trình thay da biểu bì bị chậm đi, sẽ xuất hiện hiện tượng suy giảm sản xuất vật chất ở lớp màng dẫn tới làn da không chỉ xấu về mặt thẩm mỹ mà còn nhạy cảm, yếu đuối.
Vì thế, sử dụng sản phẩm chứa AHAs ở nồng độ và tần suất phù hợp cùng loại acid thích hợp giúp hỗ trợ hoạt động sinh lý và chu kì thay mới bình thường của da:
-
Da khô, nhạy cảm, mong manh: Mandelic Acid và Lactic Acid. .
-
Da sạm, thâm, nám: Glycolic Acid và Mandelic Acid.
-
Da mụn, da dễ bị đỏ, da tối màu, dễ bị tăng sắc tố: Mandelic acid.
Một số lưu ý
Mặc dù có khả năng làm khỏe da và hỗ trợ hồi màng, bản chất AHAs vẫn là acid. Lạm dụng những hoạt chất lột tẩy này sẽ dẫn tới những hậu quả không mong muốn trên da như tăng sắc tố, nhạy cảm, mỏng, đỏ. Do đó, ngoài việc quan tâm đến loại acid cũng như tần suất và nồng độ sử dụng phù hợp, việc bổ sung hoạt chất dưỡng ẩm, giữ nước, chống oxy hóa và kháng viêm cũng được khuyến khích để đạt được làn da khỏe mạnh, xinh đẹp.
Cuối cùng, bí kíp chăm da tối quan trọng, nhà D xin nhắc lại ba lần để các anh-chị-em khắc ghi: không dùng acid phải chống nắng, có dùng acid phải chống nắng tốt hơn. Đừng quên bôi kem chống nắng kèm che chắn vậy lý và hạn chế tiếp xúc trực tiếp với ánh nắng tốt đa để làn da vĩnh viễn bất lão bất hoại cả nhà nhé!
NHƯ NHỮNG KHÚC TÌNH CA…
Trong chuyên luận Trịnh Công Sơn - ngôn ngữ và những ám ảnh nghệ thuật (NXB Văn hóa Sài Gòn, 2008), nhà phê bình Bùi Vĩnh Phúc đã xác quyết: Trịnh Công Sơn là một nhạc sĩ, điều đó đã hẳn. Thế nhưng trước hết, người nhạc sĩ đó lại chính là một thi sĩ tự trong bản chất và trong cách thế sai sử ngôn ngữ của mình. Hẳn vậy, ca từ của Trịnh Công Sơn sau hơn nửa thế kỉ đầy biến động vẫn còn vẹn nguyên sức ám ảnh. Chắc cũng vì thế mà sau khi đọc những lá thư tình mộc mạc nhưng da diết và cuốn hút của Trịnh, tôi bỗng thấy mình như Dao Ánh năm xưa, rung động trước tấm long của người nhạc sĩ hào hoa ấy.
Tôi không sống ở giai đoạn mà những người viễn phương chỉ có thể liên lạc với nhau bằng thư tay, nhưng dường như thư tay lại ẩn chứa một thứ sức mạnh vô hình nào đó khiến tôi không thể nào rời mắt. Đó không chỉ là sức hút của sự hoài cổ, mà còn là sự kết hợp hài hòa giữa câu chữ, tâm hồn và chân ái. Người ta vẫn thường chân thành hơn khi viết tay. Vậy nên bằng sự mến mộ sẵn có dành cho Trịnh Công Sơn, tôi tìm đọc “Thư tình gửi một người” và nhanh chóng hòa mình vào từng cung bật cảm xúc để rồi đắm chìm và trở nên mê mẩn trong đó.
Phần lớn thư in trong sách được Trịnh Công Sơn viết vào thời gian sống ở Blao (Bảo Lộc), thuộc tỉnh Lâm Đồng. Sương muối và mưa phùn đặc trưng của vùng đất ấy dường như đã ngấm đượm vào bút giấy, phủ lên thư một nỗi niềm man mác và day dứt khó tả: Man mác chuyện tình, day dứt chuyện nhân sinh. Hai nỗi niềm ấy lúc hòa lẫn, lúc tách riêng suốt những lá thư làm chúng da diết đến đau lòng.
“Ánh ơi, Ánh ơi, Ánh ơi” – Trịnh Công Sơn gọi tên tình nhân bao nhiêu lần không đếm xuể. Tôi có cảm giác rằng, tình cảm của nhạc sĩ được dồn nén trong những tiếng gọi ấy. Có nỗi nhớ khôn nguôi, có cả sự trìu mến như thể người thương đương gần kề. Tình cảm đã hóa thành ngọn lửa sưởi ấm Trịnh Công Sơn qua những ngày dài cô quạnh ở cái xứ “không thể kể xiết sự hoang vắng bủa vây quanh mình”. Dao Ánh trở thành tâm giao để nhạc sĩ chia sẻ những câu chuyện đời và bộc bạch thế giới tâm hồn phong phú, phức tạp của mình. Dao Ánh là nàng thơ mà nhạc sĩ tha thiết mong mỏi hội ngộ, để được ấp ôm và giữ gần mãi mãi. Dao Ánh là ước vọng về một hạnh phúc. “Thông đang reo dưới đồi. Anh ước mơ có một căn nhà có khói um lên trên đỉnh. Trong đó có một hạnh phúc vừa đủ để người này nương vào người kia.” Trịnh Công Sơn xưng “anh”, gọi “Ánh”, vừa đủ gần gụi, vừa đủ lãng mạn. Nhưng mối tình ấy, đã từng có lúc đạt đến ngưỡng cao nhất của tình yêu đôi lứa chưa? Đọc lại những bức thư nhiều lần, tôi vẫn chưa dám khẳng định.
Dường như có điều gì đó, có lẽ là không gian hoặc độ tuổi, hoặc cuộc sống cá nhân khác biệt, đã khiến hai người chỉ dừng lại ở sự say đắm mông lung. Dao Ánh hẳn là kí ức mạnh mẽ nhất mà Trịnh Công Sơn có tại thời điểm ấy, vừa là động lực sống, vừa là nỗi buồn của ông “Anh vẫn nghĩ đến Ánh mỗi ngày. Anh còn ai ngoài một Ánh cuối cùng của những ngày tháng này”. Cô còn giấu ông nhiều bí ẩn quá. Sự mỏng manh của mối tình khiến nhạc sĩ trăn trở, thậm chí lo sợ. Dao Ánh có thể chỉ là giấc mộng sẽ tan biến bất kì lúc nào. Thế nên mỗi lần người tình xứ Huế ấy tỏ vẻ trầm tĩnh, thờ ơ, Trịnh Công Sơn lại buông lời than trách. Khi yêu xa, người ta gắn kết bằng thứ gì ngoài hy vọng và lo âu.
Chúng ta không nên đóng vai triết gia để đọc thư. Khi cảm xúc của ta và nhạc sĩ gần lại, những nỗi dằn vặt về kiếp người của Trịnh Công Sơn sẽ lộ ra bên dưới lớp vỏ câu từ và ngấm dần vào tâm thức. Nhạc sĩ than thở nhiều về sự cô đơn và u buồn “thường trực sống với anh từ bao lâu”, trong đó có những điều đã trở thành đề tài, cảm hứng để sáng tác nên nhiều ca khúc. Mỗi lá thư dường như là một tạp bút mô phỏng lại những nẻo suy nghĩ rối rắm của Trịnh Công Sơn, và từ ngữ nhiều lúc mơ hồ và huyền nhiệm. Nhưng đây lại không phải xứ thần thoại diệu vợi nào, mà là thế giới tâm hồn của Trịnh, nơi Dao Ánh có thể bước chân vào và thấu hiểu được phần nhiều có lẽ. “Khi con người không còn gì, khi nỗi chết đã tìm về trong máu thì người ta bỗng thèm trối trăng. Anh sống những ngày mê sảng với bè bạn, với người thân yêu. Ánh hiểu anh nghe Ánh.” Còn chúng ta? Chúng ta đều có thể tìm thấy trong thế giới đấy những nét buồn chung. Bởi Trịnh Công Sơn có cả nỗi buồn riêng tư lẫn nỗi buồn nhân loại.
Người chẳng bao giờ nguôi ngoai buồn, thế nên, nỗi ám ảnh mãi là vĩnh viễn. Tập sách Thư tình gửi một người gồm hàng trăm bức thư tình của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn gửi cho Ngô Vũ Dao Ánh trong giai đoạn 1964-2000. Những bức thư do chính Dao Ánh gìn giữ và ủy quyền cho gia đình Trịnh Công Sơn công bố nhân kỷ niệm 10 năm ngày mất của nhạc sĩ. Sách do NXB Trẻ ấn hành.